Childhood,  Family,  Friends,  Memory,  Saigon,  School,  Special Editions,  Vietnamese

Hồi Ký Tuổi Thơ

By Khổng Trương - English Version available soon -

Một đứa bé Việt-Nam da vàng lớn lên trong cuộc nội chiến,  chứnggiám những bước tiến của xã hội, sụp đổ của chínhquyền. Từ ngày theo làn sóng Người đi tìm tựdo bên kia bờ đạidương xa hơn nữa vòng quả địacầungười thanh niên ấy nay trưởng thành trong một quốc gia khác trở nên một côngdân HoaKỳ. Được hun đúc trong một không khí lành mạnh và với một sự cầu-tiến mạnh mẽ, người ấy đã vượt qua hầu hết mọi trở ngại để đạt được ước vọng của mình.  Cùng lúc ấy sự hiểu biết và nhậnthức gây ra nhiều mối bănkhoăn về tư tưởng, lối sống tươnglai …

Ở đây tôi người thanh niên ấy -muốn ghi nhận lại những hình ảnh kỷ niệm cũ của thời thơ ấu và những tiến triển của đời sống để nhớ lại những người đã đi qua đời tôi.

Căn nhà của chúng tôi ở Việt Nam nằm trong vùng Gia-Định gần với trung tâm thành phố SàiGòn. Nhà mang số 1205 Huỳnh Quang Tiên, sau này đổi thành 435/29 Ấp Tây III, Phú Nhuận Gia Định.  Ngày mà tôi bắt đầu có trí nhớ có lẽ là thời tôi bắt đầu đi học lớp mẫu giáo của ông thầy già gần trường Tia-Sáng.

Lớp học rất đông nhưng vẫn có trật tự; học sinh mặc quần cụt áo sơ-mi cụt tay đi học, chúng tôi không có giày, chỉ có dép cao su . Trên đường đi đến trường là một chỗ để giết heo, , trâu gọi là côngxy heo. Mỗi lần đi qua tôi phải chạy thật nhanh vì ở chỗ đó hôi thối quá, Lại bùn sình rất dơ bẩn. Trường ông thầy già hình như là nhà của ông luôn nhưng ông ở phía sau lớp. Lúc bắt đầu học tôi được phát một cuốn vỡ có in sẵn những mẫu tự a, b, c… ông thầy già phải cầm tay tôi tập tô lên những chữ ấy cho thuận Tay. Thời kỳ này gọi là viết tô. Sau một thời gian khi đã khá ông để tôi tự viết một mình những chữ đó. Lúc này gọi là viết buông. Tôi học ở trường ông được gần nửa năm và rất  được lòng ông. Sau này lớn lên thời tiểu học thỉnh thoảng ông đi nhà thơ về gặp tôi gần nhà, tôi thường chạy lại khoanh tay chào “thưa thầy và ông hay xoa đầu hỏi han. Có lẽ đây là người mở trí cho tôi đầu tiên. Tôi cũng nhớ có đi học tại trường TiaSáng nhưng ở đây không có nhiều kỷ niệm lâu dài.

Khi tôi vừa đủ tuổi để vào tiểu học, có lẽ khoảng 5 tuổi, tôi phải đi thi xin học vào trường công. Ngày đi thi tập đọc tại trường ĐoànThịĐiểm tôi đã phải đọc câu “Tí, Tơ đi chợ và được nhận vào lớp 1. Trường Đoàn Thị Điểm rất nghèo; những lớp 1 và 2 có tường làm bằng phên, nứa và có mái tôn. Những lớp khác tường làm bằng ximăng trộn với đất và trấu. Mỗi lúc ngồi trong lớp gần vách tường chúng tôi hay lấy ngồi viết chọc vào vách tường cho thủng lỗ và lấy ra từng sợi như rơm, rạ . Ở đây là thời kỳ tôi có nhiều bạn bè và giữ lại nhiều hình ảnh thân thiết nhất. Lớp một tôi không nhớ đã học ai. Lớp hai thì thầy giáo tên Hiển . Thầy thường cầm một cây thước gỗ có bọc nylông bên ngoài, không biết để đánh đau hơn hay để ít nghe tiếng hơn. Mỗi ngày đến lúc điểm danh Chúng tôi phải đứng trước cửa lớp sắp hàng tay, phải để lên vai người đứng trước mình để so hàng cho thẳng. Khi được lịnh chúng tôi mới lần lượt từng hàng bước vào lớp. Trong lớp học chúng tôi ngồi trên những băng ghế gỗ dính liền với bàn học. Trong lớp có hai hàng bàn ghế hai bên mỗi bàn ngồi khoảng 5, 6 học sinh và trong lớp có độ 10 hàng ghế. Tổng cộng cả lớp có chừng tám chục học sinh. Thầy giáo ngồi ở một bàn gỗ được kê trên một bục gỗ cao để có thể trông thấy tất cả các học sinh dễ dàng. Gần kế bên thầy là một bãng đen lớn có kẻ hàng và ngay bãng là một bục gỗ khác để đứng viết. Bục này cũng để phạt các học sinh bị quỳ gối ngay trước lớp hay nằm sấp trên bụng để bị roi quất vào mông. Nói đến bị đòn không một học sinh nào không quên hết! Thường nếu bị đòn đánh trên tay học sinh thường giơ tay trái ra để chịu đòn, và để tay phải khỏi đau còn dùng vào việc viết bài. Nếu bị phạt nhiều quá học sinh thường chịu mỗi tay năm roi và đổi qua tay kia. Đôi khi cũng có đứa rút tay về khi thầy quất xuống và phải chịu đòn gấp đôi hay phải giơ tay ra lại. một mánh khóe làm cho bớt đau là đưa tay ra và tay kia bóp chắc cổ cây đó, không biết lối đó có làm bớt đau thật không nhưng thường thì học sinh tin vậy.

Để có đủ chỗ cho học sinh, trường chia ra giờ học như sau: buổi sáng cho con trai, buổi chiều cho con gái, hay ngược lại. Tổng cộng giờ học độ bốn tiếng và học sinh được nghỉ ra chơi khoảng 15 phút sau 2 giờ học đầu. Nói đến học sinh, tôi không quên được những giờ ra chơi và lối ăn hàng của họ. Trường có hàng rào bao quanh lớp học và ngoài vòng hàng rào là các sạp bán đồ ăn vặt. Đôi khi những người bán không cần sạp, họ chỉ có đôi thúng hay chiếc xe đạp với tất cả hàng hóa lũng cũng treo phía sau. Vì ở miền nhiệt đới nóng bức nên những hàng nước và hàng càrem lúc nào cũng đắt hơn cả. Nước thì có đủ thứ nào là đá bào nhận với syro đủ màu, nước bông cỏ ngọt lịm, nước chanh có pha thêm màu xanh…. Cà rem thì lại càng nhiều thứ hơn. Rẻ nhất là càrem đá pha màu xanh, đỏ; khi hút hết chất syrô ngọt chỉ còn lại trơ trụi một khúc đá bào. Rồi đến cà rem hột é, khi liếm càrem một lúc những hột é sần sùi hiện ra và nổi lên như da cóc. Những thức cà-rem mắt tiền hơn thì có vị mít, mãng cầu,….Kế bên xe bán kem là những bà bán hàng rong như gỏi đu đủ với khô bò. Đu đủ bào thành sợi nhỏ bỏ thêm lên vài cọng khô bò, rau thơm và xịt tương đỏ, nước mắm ngọt thì ngon hết chỗ nói. Những hàng bán ốc bốc hơi nóng và đưa lại một mùi hăng hắc nhưng cũng dễ chịu vì nó lẫn với mùi xã và chanh. Nếu muốn ăn ốc gạo người mua có thể ngồi xung quanh một cái sạp gỗ với một băng ghế nhỏ, với tay lấy một cây kim đã được đâm sẵn vào một vài trái chanh để trên đó. Với một đĩa ốc luộc và một chén nước mắm trước mặt, bây giờ chỉ cần búng cái  vẫy ra và lấy kim đâm vào thịt ốc và xoắng vòng ra, ngắc bỏ phần đuôi cho bớt cát rồi nhúng vào chén mắm ớt, hương vị này không thể quên được. Rẻ hơn món ốc gạo là món ốc hút. Ốc màu đen dài và nhỏ độ một nửa ngón tay út. Muốn ăn trước hết phải cắn bỏ phần đuôi vỏ ốc nho nhỏ để khi hút phần đầu có thể dễ dàng hơn. Những quầy bán bún cũng bốc hơi nóng Nghi ngút không kém. Nào là bún riêu, bún rau muống, bánh canh….Những hàng này có vẻ ít khách hơn vì có lẽ ăn bún nóng mất nhiều thì giờ so với 15 phút ra chơi. Nếu không muốn ăn mặn thì đã có các thúng xôi, bánh rán, bánh đậu xanh, kẹo kéo. Mặc dầu bị cấm ăn trong lớp nhưng thường thường học sinh cũng giấu vài miếng bánh hay kẹo trong túi để lúc vào học ăn vụng tỏm tẻm.

Tùy theo mỗi cấp, lớp học được chia ra nhiều giờ khác nhau. Chẳng hạn một giờ đầu học ViệtSử, một chờ kế tiếp học VănPhạm. Sau khi ra chơi vô là giờ toán và cuối cùng là công dân Giáo dục. Đôi khi khoảng 15 phút cuối được dành để tập hát những bài ngăn ngắn. Sách học thì được nhà trường phát ra cho mượn học trọn năm và đến khi nghỉ hè phải trả lại. Vở học sinh thì chúng tôi phải tự mua lấy. Mỗi cuốn vở phải được bao giấy màu tùy theo từng môn và phải có nhãn dán bên ngoài để tên trường, tên học sinh, môn học và niên khóa học. Học sinh nào có tiền thì mua thêm loại bao vở bằng nylông hoặc plastic bao một lớp ngoài nữa. Tôi còn nhớ có nhiều trò không có tiền để mua giấy màu Bao tập và phải dùng giấy báo để bao thường bị thầy cô quở mắng luôn. Có lẽ sau một thời gian thì cô hiểu ra họ thông cảm hơn và hết la những học sinh ấy.

Học sinh tiểu học phải dùng loại viết mực để tập viết chữ cho tốt; viết nguyên tử hay viết bi và viết máy bị triệt để cấm dùng. Viết mực có hai loại, thông dụng nhất là ngòi viết bầu và ngoại viết tre. Ngòi viết được làm bằng sắt mỏng rất bóng láng đầu viết có một đường rảnh xẻ nhỏ để có thể giữ một ít mực. Loại mực chúng tôi dùng được pha từ những viên mực nhỏ bằng đầu cọng giá. Thường thì dùng mực màu tím nhưng đôi khi mực màu đen cũng được chấp nhận. Thân viết là những cán gỗ thon nhỏ như chiếc đũa một đầu được khoanh một vòng tròn nhỏ để đút ngòi viết vào đầu kia được chuốc nhọn. Mỗi học sinh có vài cây viết để phòng khi ngòi viết bị tà đầu không dùng được nữa thì đã có viết khác. Vì phải dùng mực nên mỗi trò phải đem thêm một bình mực bằng nhựa có nắp đậy vì vậy sau mỗi ngày từ trường về là học sinh nào cũng có một vài dấu mực tím dính trên tay hay áo quần dù có đã cẩn thận cho đến mấy.

Gia đình tôi có tổng cộng 11 người. Tám anh chị em tôi, ba, mẹ, và ông nội tôi. Nhà Thực sự chỉ có 3 phòng lớn và một nhà bếp nhưng cũng thấy rộng rãi. Ngoài ra sân trước và sân sau khá lớn có hàng rào và tường chung quanh để làm chỗ chơi cho bọn con nít nên trong nhà không chật chội lắm. Kế bên nhà là một nghĩa địa nhỏ có chừng 10 nấm mồ thường là chỗ chơi của anh em tôi. Tôi còn nhớ mỗi phòng có hai cái giường được trải chiếu sạch sẽ. Ông nội thì được một cái đivân bằng gỗ trơn láng kê ngay phòng ngoài cùng. Đối diện với ông là bàn thờ tổ tiên rất trang trọng. Bàn Là một tủ buf-fet đựng chén đĩa bên trong. Trên mặt tủ là bộ lư đồng to lớn gồm có hai đồ cắm đèn cầy to lớn ở hai bên, ở giữa là lư hương chạm Khảm hình hai con rồng trên hai đồ cầm tay. Trên nắp lư là một con kỳ lân bằng đồng sáng quắt. Mỗi năm cứ đến gần Tết là kẻ gia đình xúm lại đem bộ lư đồng xuống để lau chùi và đánh bóng. Công việc này thường mất một hay hai ngày và được làm rất tỉ mỉ và công phu. Nhưng lần nào cũng vậy, ông nội tôi cũng chê là nó không sáng như hồi xưa hay là nó chỉ mới sáng “huây huây thôi .

Giường ngủ của anh em tôi làm bằng gỗ trên mặt có đóng những miếng cây nhỏ để trải chiếu.chiếu bằng mây và được dệt rất đẹp với những hình tròn vuông màu đỏ, xanh. Vì có nhiều muỗi nên khi ngủ lại phải treo mùng bằng lưới vải mỏng để khỏi bị muỗi chích. Mẹ tôi lại may thêm nhiều gối ôm dài để tấn phía trong vườn cho mũi khỏi vô, nhưng thế nào sáng thức dậy đứa nào cũng bị một vài dấu chích đỏ trên tay chân. Thỉnh thoảng có đứa nào đái dầm trong giường mẹ tôi lại phải giặt mền chiếu và phơi ngoài sân cho khô. Đôi khi vì bị giặt quá nhiều nên chiếc chiếu bị ố màu và phai đi rất mau, làm mất hết vẻ đẹp của chiếc chiếu.

ở cuối nhà là phòng bếp với bộ bàn ăn ngay giữa và lò bếp bên phía tây mặt. Lò là một cái bệ xây bằng ximăng cao độ một thước. Trên đó có 2 bếp rềxo nấu bằng dầu hoả và một bếp than. Kế bếp là một tủ man-gé làm bằng gỗ có lưới bao quanh để đựng đồ ăn và chén đĩa, gần bàn ăn bên phía trái là một lu lớn bằng sành đựng gạo. Một lu khác kê gần bếp đối diện chỗ rửa chén, đựng nước có ống dẫn qua đồ lọc nước để làm nước uống. Cuối nhà bếp bên phía trái là phòng tắm, bên phía mặt là cầu tiêu. Chỗ rửa chén có một ngạch cao độ 1 gang tay chạy từ bức tường của phòng tắm đến một lỗ cống gần đó. Ngạch cement này ngăn không cho nước rửa chén tràn vào nền nhà bếp dẫn nuoc đến lỗ cống.

Mặc dầu ở cấp tiểu học nhưng mỗi lớp đều được tổ chức rất cẩn thận. Đứng đầu một lớp là anh trưởng lớp; trò này có phận sự giữ trật tự khi thầy cô vắng mặt, và điểm danh kiểm soát học sinh vắng mặt mỗi ngày . trưởng lớp cũng là người hô lên những khẩu hiệu chào đón thầy cô mỗi khi vào lớp chẳng hạn như câu học sinh, đứng”, học sinh, ngồi….Trưởng lớp thường là những học sinh xuất sắc được thầy cô ưa thích và được bạn bè chơi với nhau. Đôi khi  trưởng lớp cũng còn là người khỏe mạnh mẽ để đánh lại với những học sinh hay vô lớp mình sinh sự. Dưới trưởng lớp là một người phó trưởng lớp và bốn hay năm đội trưởng tùy theo sĩ số học sinh nhiều hay ít . Mỗi đội gồm có chừng hai ba dãy bàn và khoảng 10 học sinh. Vấn đề giữ sạch sẽ vệ sinh trong lớp Mỗi tuần được giao phó cho từng đội và người đội trưởng phải đốc thúc những trò trong đội mình đem theo chổi tới trường quét lớp và phải lau bảng đen trước khi vô lớp và sau khi tan lớp .

Năm học lớp 2 tôi còn nhớ một người bạn rất thân của tôi và cũng là trưởng lớp là Nguyễn Đắc Hùng còn tôi là phó trưởng lớp. Hùng rất to con và bạo dạn và thường đánh tan học trò những lớp khác. Tôi và Hùng học chung cho đến hết lớp 4 thì hình như gia đình Hùng đổi đi nơi khác và từ đó tôi không bao giờ gặp lại người bạn cũ đó nữa. Một người bạn khác là Nguyễn Phú Đức mà chúng tôi hay chọc là Nguyễn phú lít” (police). Cha của Đức là một sĩ quan trung tá và nhà Đức có mở tiệm tạp hóa trên đường Trương Minh Ký. Đức và tôi học chung hết cấp tiểu học và cùng học lớp luyện thi đệ thất ở trường Thành Danh.

Ỏ các lớp tiểu học, học sinh được chấm điểm và xếp hạng mỗi tháng. Cứ đến cuối tháng thì các bảng danh dự từ hạng nhất cho đến hạng năm được thầy cô trao cho 5 học sinh xuất sắc trong tháng. Bắt đầu từ lớp 3, tháng nào tôi cũng được tưởng thưởng bảng danh dự và nhất là mỗi cuối niên học tôi đều được phát phần thưởng gồm những món quà như sách vỡ, viết và các vật dụng khác. Có năm phần thưởng lại gồm thêm một ổ bánh mì lớn và một phong kẹo cao su (chewing gum), chúng tôi lấy làm thích thú lắm khi nhận được quà có thể ăn được.

Để giải trí Chúng tôi nghĩ ra nhiều trời chơi tuy không tốn kém nhưng rất hào hứng. Đôi khi những trò chơi này còn có tính cách cá với nhau để ăn tiền. Về loại trò chơi này có những thứ như đánh đáo, đập cho đồng tiền lật ngược lại, bắn bi. Các trò chơi không ăn tiền gồm có nhiều thứ như tạt lon, tạt hình, u mọi, rượt bắt, bắn bì, trốn kiếm. Có lẽ không có đầy đủ tiền bạc và phương tiện học sinh đã đặt ra nhiều trò chơi rất thú vị mà có lẽ đến ngày nay tôi vẫn còn nhớ mãi. Có nhiều đứa lại đem tiền ăn quà của mình ra chơi và cuối cùng thua nhẵn túi đành ngồi nhìn bạn của mình dùng tiền mới thắng được mua đồ ăn, nước uống.

Trong năm cuối cùng ở bậc tiểu học có nhiều thay đổi đến với tôi. Tôi ghi học thêm lớp học tư của cô giáo vào buổi sáng tại nhà cô, còn buổi chiều là lớp thường xuyên vẫn tại trường ĐoànThịĐiểm. Các thầy giáo, cô giáo vào thời buổi ấy tiền lương không bao nhiêu nên thường mở thêm các lớp hoc tại tư gia để kiếm thêm chút ít. Tại lớp học tư này ngoài những bài giảng thêm thầy hay cô còn cho làm những bài toán mà lớp học buổi chiều sẽ làm. Thành thử các học sinh lớp 4 của họ hầu hết đều làm bài rất khá vào buổi chiều. cha mẹ chịu tốn chút ít tiền để con mình học khá hơn và dĩ nhiên điểm của những học sinh đó sẽ khá hơn vì đã làm bài trước; thầy cô được thêm tiền chợ mỗi tháng, mọi người vui vẻ; những năm  học ở trường ĐoànThịĐiểm chấm dứt những kỷ niệm tại ngôi trường này không bao giờ phai lạc trong kýức tôi.

Leave a Reply

Your email address will not be published.